icon icon icon
Số 17 đường 12, Phường An Phú, Quận 2, TP. HCM Tìm kiếm

CHƠI TỰ DO - Phần 2: Bản chất của chơi

Người đăng: Tre Xanh Steiner - 10/11/2023

Trường Tre Xanh Steiner sẽ dành thêm vài kỳ để nói về “Chơi tự do” vì vốn dĩ, đó là hoạt động vô cùng quan trọng với sự phát triển của trẻ. Nó cũng là một đề tài to lớn đã được nghiên cứu chuyên sâu bởi nhiều nhà giáo dục.

Kỳ này,Tre Xanh hân hạnh được gửi đến bài viết của cố nhà giáo, chuyên gia giáo dục mầm non Steiner, Joan Almon. Bà là người thành lập trường Baltimore Waldorf, đồng thành lập Hiệp hội Giáo dục mầm non Bắc Mỹ (WECAN), đồng sáng lập Liên minh cho Trẻ em (Alliance for Children). Bà qua đời năm 2019 ở tuổi 74, để lại nhiều nghiên cứu, bài viết/nói, sách và những cống hiến có giá trị to lớn và đầy cảm hứng.

Bài viết cung cấp cái nhìn thấu đáo về hoạt động chơi của trẻ, và bàng bạc khắp nơi, là tình yêu thương trẻ tha thiết và sự đau đáu, mong muốn giữ gìn một tuổi thơ thuần khiết cho các em.

1. VAI TRÒ SỐNG CÒN CỦA CHƠI TRONG THỜI THƠ ẤU

2. BẢN CHẤT CỦA CHƠI

3. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHƠI

4. NHỮNG LỢI ÍCH VỀ MẶT XÃ HỘI, CẢM XÚC VÀ TRÍ TUỆ CỦA CHƠI

5. ĐIỀU GÌ ĐANG XẢY RA VỚI HOẠT ĐỘNG CHƠI CỦA TRẺ

BẢN CHẤT CỦA CHƠI

Trước tiên cần hiểu bản chất của chơi nếu chúng ta muốn bảo vệ nó. Hoạt động chơi sáng tạo giống như dòng suối bắt nguồn từ sâu bên trong đứa trẻ. Nó giúp trẻ tỉnh táo, phấn chấn và là một phần tự nhiên hình thành nên một đứa trẻ khỏe mạnh. Đây là nguyên tắc cơ bản đối với bản chất của trẻ đến nỗi khó có thể tách rời giữa chơi và học. Khi trẻ đang thực hiện những kỹ năng thể chất mới, các mối quan hệ xã hội hay “học” nhận thức, các em đều tiếp cận với một tâm thế vui chơi. Như một người bạn kể về đứa con tám tháng tuổi của mình, “Trông giống như nó đang mải mê làm việc suốt.” Nhưng đó là làm việc hay chơi? Đối với trẻ con không có sự khác biệt.       

Người lớn thường bị thấy mình cần phải “dạy” trẻ. Đúng là chúng ta nên đặt ra hình mẫu cho mọi loại hình hoạt động. Chúng ta cũng cần tạo ra những khoảng không gian thích hợp nơi trẻ có thể chơi và học tập, và thỉnh thoảng chúng ta cần giúp, thậm chí là can thiệp khi mọi việc diễn ra theo chiều hướng tiêu cực. Nhưng điều chính yếu là chúng ta cần trân trọng khả năng học hỏi bẩm sinh của trẻ, chính khả năng này khiến trẻ vận động và nó bồi đắp tâm hồn cho từng đứa trẻ khỏe mạnh. Lòng yêu thích học hỏi của trẻ gắn kết sâu sắc với sự say mê vui chơi.   

Bé Nathan một tuổi theo bố mẹ đến ngôi nhà mùa hè chúng tôi cùng thuê chung như một gia đình. Bé sung sướng khi tìm thấy những bậc cầu thang trong ngôi nhà, vì ở nhà của bé chỉ có một bậc thang và bé đã bước qua bước lại thuần thục từ lâu. Giờ thì bé được thỏa chí leo cầu thang của một đứa trẻ. Bé leo lên leo xuống hết lần này đến lần khác. Chúng tôi thay nhau trông chừng nhưng rất hiếm khi bé cần giúp đỡ. Bé chú ý, tập trung và không thích bị đem ra khỏi hoạt động này. Trong khi leo, từng nét mặt, cử chỉ của bé đều thể hiện rõ niềm vui sướng, sự hớn hở, và rõ ràng cũng đang khám phá và thuần thục một kỹ năng mới quan trọng cho sự phát triển lâu dài của mình. Quan trọng nhất, đó là nhiệm vụ bé tự đặt ra cho mình. Không ai có thể bảo đứa trẻ một tuổi này phải dành hàng giờ để leo trèo. Và cũng không cần ai phải bảo. Bé tự làm, cũng như bất kỳ một em bé khỏe mạnh nào với giác quan vận động không bị can thiệp, cũng sẽ tự làm.

 

Một ví dụ khác: Một sáng thứ Hai, bé Ivana bốn tuổi đến trường mẫu giáo và tự hào thông báo rằng bé đã có thể tự cột dây giày. Tôi đã có vẻ hoài nghi vì hầu hết các em bé lên bốn không thể thắt một chiếc nơ con bướm thực thụ. Ivana quyết tâm chứng minh cho tôi xem, bé ngồi xuống sàn rồi tháo giày. Sau đó bé cột lại dây giày thành hình chiếc nơ bướm hoàn hảo, ngước nhìn gương mặt kinh ngạc của tôi và toét miệng cười. Sau đó tôi hỏi mẹ của Ivana xem bé đã học làm điều đó như thế nào. Mẹ bé cười và thuật lại với tôi suốt cuối tuần Ivana đã giả vờ như mình sẽ đi dự một bữa tiệc sinh nhât. Bé sử dụng tất cả các mảnh giấy vụn tìm được để xếp thành các gói quà sinh nhật nho nhỏ. Rồi bé lục tìm trong chiếc giỏ chỉ thêu của mẹ, lấy các mẩu sợi chỉ để cột những gói quà. Trong suốt cuối tuần có lẽ bé đã cột 60 hay 70 gói quà cho đến khi cuối cùng bé đã nắm vững nghệ thuật thắt nơ con bướm một cách thuần thục.

Một lần nữa, không ai buộc Ivana phải thực hiện một nhiệm vụ như thế. Rõ ràng bé cảm thấy mình đã sẵn sàng, và điều quan trọng là bé làm việc đó trong tinh thần vui chơi, giả như mình sẽ đi dự tiệc sinh nhật. Thắt nơ bướm không phải là một nhiệm vụ chán ngắt mà là điều cô bé sung sướng được làm.

Có một sự thật đơn giản là trẻ con được sinh ra cùng với một thôi thúc lớn lên và học hỏi tuyệt vời nhất. Trẻ liên tục phát triển các khả năng và kỹ năng mới, và nếu được cho phép tự thiết lập nhịp độ với một chút hỗ trợ từ người lớn, trẻ sẽ thực hiện toàn bộ những điều này một cách ham thích và không hề mệt mỏi. Thế nhưng, thay vì tôn trọng thiên hướng học hỏi bẩm sinh này, chúng ta lại đối xử như thể trẻ chỉ có thể học được những gì ta dạy. Chúng ta tước khỏi trẻ sự tự tin vốn có để tự học, thúc ép trẻ và thường xuyên khiến trẻ mệt mỏi. Không có gì lạ khi nhiều giáo viên than phiền ở tuổi lên chín hoặc mười, trẻ dường như kiệt sức và không còn hứng thú học tập. Đây chính là bi kịch, vì tính ham thích học hỏi mà Nathan và Ivana thể hiện sẽ kéo dài trong suốt cuộc đời. Hơn nữa, nó còn ràng buộc mật thiết với khả năng sáng tạo và chủ đích của chúng ta.

Nhà tâm lý học Mihaly Csikszentmihalyi đã dùng từ “dòng chảy” khi nói về trạng thái sáng tạo của một người trưởng thành. Tham khảo qua công việc của Csikszentmihalyi, Daniel Goleman cùng những đồng tác giả của quyển Tinh thần Sáng tạo (Creative Spirit) đã miêu tả dòng chảy ấy là thời gian “con người vươn đến đỉnh cao nhất. Dòng chảy ấy có thể xuất hiện trong bất cứ lĩnh vực hay hoạt động nào – vẽ tranh, chơi cờ, làm tình, bất cứ thứ gì. Chỉ có một đòi hỏi là những kỹ năng của bạn phải hòa hợp tuyệt đối với nhu cầu của thời điểm đến mức ý thức về bản thân đều tan biến.”  (Goleman et al., p. 46).  Cũng hệt như vậy, hoạt động chơi của trẻ tiêu biểu cho sự vắng mặt của ý thức về bản thân.

Sự tập trung cao độ trẻ thể hiện khi đắm chìm trong hoạt động chơi thật đáng kinh ngạc. Tôi nhớ lại Peter năm tuổi khi cậu bé nhìn chăm chú hai bé gái trong trường mẫu giáo đang chơi diễn một vở kịch tuyệt đẹp trên mặt bàn. Hai bé gái vô cùng mải mê và Peter cũng vậy. Điều đó xảy ra vào ngày đội cứu hỏa chạy đến chỗ chúng tôi sau khi một giáo viên thông báo có mùi điện trong phòng. Ba xe cứu hỏa đậu ngay trên lối vào. Benjamin bạn của Peter chạy về phía cậu bé và hét lên “Peter, Peter, xe cứu hỏa kìa!” Nhưng Peter đang chú tâm xem vở kịch đến nỗi không trả lời. Benjamin cố gắng lần nữa nhưng kết quả vẫn thế. Cậu bé nhún vai và vội vã quay lại cửa sổ để nhìn những chú lính cứu hỏa. Cuối cùng, Petter dứt khỏi sự tập trung, nhìn thấy xe cứu hỏa và cũng vội vàng đến bên cửa sổ.

Trạng thái của Peter lúc đó rất giống với trạng thái của một nhà giải phẫu thần kinh Csikszentmihalyi đã mô tả. Ông hoàn toàn đắm mình vào một cuộc phẫu thuật phức tạp. Khi kết thúc, vị bác sĩ giải phẫu đã hỏi về những mảnh gạch vỡ trong góc phòng phẫu thuật; trước đó ông không nhìn thấy chúng. Sau đó người ta trả lời ông rằng một phần trần nhà đã bị rơi xuống trong khi cuộc phẫu thuật diễn ra. Ông đã tập trung vào dòng chảy công việc đến mức không nghe thấy gì cả. (Goleman et al., pp. 46– 47)

Trạng thái dòng chảy này đã được trải nghiệm bởi các nhà khoa học, bác sĩ, nghệ sĩ, và phần nào nghe có vẻ hơi đáng sợ hoặc kinh ngạc đối với chúng ta. Liệu chúng ta có muốn toàn tâm toàn ý trọn vẹn như vậy trong cuộc sống và học tập hay không? Nó không thích hợp cho bức tranh tạm thời của người làm việc đa nhiệm – thực hiện nhiều việc cùng một lúc nhưng thường không sâu sắc ở bất cứ việc nào. Tuy nhiên đó là một trạng thái quan trọng nếu chúng ta muốn uốn nắn năng lực của bản thân đến mức cao nhất và cống hiến những khả năng tốt nhất của mình cho cuộc đời. Đây là những kỹ năng trẻ được chuẩn bị để phát triển và thậm chí nóng lòng được phát triển. Tuy nhiên, khi bước vào môi trường giáo dục, trẻ dần dần nhận thấy lớp học đầy dẫy những bài giảng rập khuôn, học tập qua máy tính và kiểm tra thông qua những bài đánh giá theo tiêu chuẩn. Tất cả những điều này đã tầm thường hóa khả năng thật sự của trẻ đối với cuộc sống và khiến cho phần lớn trẻ bị thất vọng và sụp đổ.

-----

Nguồn tham khảo:
Alliance for Childhood. Children from Birth to Five: A statement of first principles on early education for educators and policymakers. Retrieved October 29, 2002 from http://www.allianceforchildhood.com/projects/play/index.html.

Der Spiegel (German news magazine, No. 20, 1977). p. 89-90.

Goleman, D., Kaufman, P. & Ray, M. The Creative Spirit. Dutton Books. 1992

High/Scope Summary. Different Effects from Different Preschool Models: High/Scope preschool curriculum comparison study. Drawn from works by Schweinhart, L. J., & Weikart, D. P., et. al.  Retrieved October 29, 2002 from http:// www.highscope.org/Research/curriccomp.html).

National Center for Education Statistics (NCES). Report entitled Readiness for Kindergarten: Parent and Teacher Beliefs, 1995. Citation retrieved October 29, 2002 from http://www.education-world.com/a_curr/curr027.html.

Ohanian, Susan. What Happened to Recess and Why are our Children Struggling in Kindergarten? New York: McGraw- Hill, 2002.

Singer, Dorothy and Singer, Jerome, The House of Make-Believe. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1990.

Smilansky, Sara. “Sociodramatic play: Its relevance to behavior and achievement in school.” In E. Klugman & S. Smilansky (Eds.), Children’s Play and Learning.  New York: Teacher’s College. 1990.

Steinberg, Jacques. “Student failure causes states to retool testing.” New York Times, December 22, 2000.

Bài báo của Joan được trích dẫn từ một chương trong một tuyển tập của bà có tên “A Crisis in Early Childhood Education: The Rise of Technologies and the Demise of Play” do Greenwood (một đơn vị của Praeger) xuất bản năm 2003 như một phần của loạt bài Sức khỏe Tinh thần và Tâm lý Trẻ thơ.  Các cộng tác viên khác gồm có Frank Wilson, Jeff Kane, Stanley Greenspan, Jane Healy và Christopher Clouder.

– Bài của Joan Almon, dịch bởi Ngọc Thảo –